HỒ BIỂU
CHÁNH
(Hồ Văn Trung)
Vũ Ngọc
Phan
Ông là
một nhà tiểu thuyết đă nổi tiếng một
thời vậy mà gần đây ở ngoài Bắc không c̣n mấy
người nhớ đến nữa. Cái đó chỉ v́ một
lẽ những tiểu thuyết của ông đă mười
năm nay không c̣n lưu hành ngoài Bắc nữa. Hồi
trước, người ta được đọc tiểu
thuyết của ông là v́ ông đăng trong Phụ Nữ
tân văn, một tạp chí mà sức truyền bá đă rất
mạnh trong đám người trí thức đương
thời. Đó là những truyện: V́ nghĩa v́ t́nh
(đăng trong P.N.T.V. từ số 1, ngày 2-5-1929); Cha
con nghĩa nặng (P.N.T.V từ số 23, ngày
3-10-1929); Khóc thầm (P.N.T.V từ số 46, ngày 3-4-1930); Con
nhà giàu (P.N.T.V từ số 85, ngày 4-5-1931) vân vân. Theo
Thiếu Sơn trong cuốn Phê b́nh và cảo luận, Hồ
Biểu Chánh c̣n là tác giả những tập tiểu thuyết:
Cay đắng mùi đời,
Chút phận linh đinh, Ai làm được? Thầy thông
ngôn, Kẻ làm người chịu và Tỉnh mộng,
nhưng những tiểu thuyết này từ lâu không thấy
có ở một hiệu sách nào ngoải Bắc cả.
Về
đường lư tưởng, tiểu thuyết Hồ Biểu
Chánh cũng giống như tiểu thuyết của Hoàng Ngọc
Phách, nghĩa là cả hai nhà văn đều lấy luân lư
làm gốc, lấy cổ gia đ́nh làm khuôn mẫu, lấy
sự trung hậu làm điều cốt yếu trong mọi
việc ở đời. Nhưng tiểu thuyết của
họ Hồ lại khác tiểu thuyết họ Hoàng về
mấy phương diện. Tiểu thuyết của họ
Hoàng thiên về tả t́nh và giọng văn nhiều chỗ
ủy mị cầu kỳ, không tự nhiên, c̣n tiểu thuyết
của họ Hồ thiên về tả việc và lời
văn mạnh mẽ, nhiều chỗ như lời nói
thường.
Thật
thế, tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh là những
tiểu thuyết đầy động tác, việc nọ
việc kia dồn dập, gây cho người đọc những
cảm tưởng kỳ thú. Nếu đọc tiểu
thuyết của Hồ Biểu Chánh mà lại chê là kém mặt
tả t́nh và về tưởng tượng không được
dồi dào, th́ thật không biết xét nhận. Tính t́nh của
người ta biểu lộ ra ở lời nói đă
đành, nhưng nó c̣n biểu lộ ra ở cả mọi
sự hành động nữa, mà biểu lộ ra ở hành
động mới thật đầy đủ, mới thật
là những tính t́nh đă trải qua thời kỳ tranh
đấu và chọn lọc trong tâm trí. Về đường
tâm lư, nếu tính t́nh cùng tư tưởng chỉ ở
trong tâm trí và chỉ diễn ra được đến lời
nói là cùng, tức là có bệnh về đường ư chí. Bởi
vậy, qua một thời kỳ dự định, phải
đến một thời kỳ quyết định và
hành động mới được. Một thiên tiểu
thuyết mà động tácdồn dập bao giờ cũng
là một thiên tiểu thuyết kỳ thú. Chỉ khó một
điều là tác giả phải biết "khiến việc",
cũng như một viên tướng phải biết cầm
quân trong khi số quân hàng vạn hàng triệu, đừng
để đến nỗi có sự rối loạn.
Muốn
có nhiều động tác mà vẫn giữ được
trật tự, điều cốt yếu là tác giả cần
phải là một nhà văn rất giàu tưởng tượng.
Vậy một nhà văn nghĩ ra được nhiều
động tác không bao giờ lại có thể là một nhà
văn nghèo về tưởng tượng được.
Những tiểu thuyết của Alexandre Dumas là những tiểu
thuyết rất nhiều động tác mà ai đọc nhà
văn Pháp này cũng phải khen là ông rất giàu tưởng
tượng.
Tiểu
thuyết của Hồ Biểu Chánh lại là những tiểu
thuyết có tính chất b́nh dân, b́nh dân cả từ những
nhân vật ông chọn đến những lời văn ông
viết nữa. Hạng người ông tả là hạng tiểu
công chức, tiểu phú hào hay hạng thợ thuyền, hạng
dân quê. Những hạng người ấy không phải những
hạng người sống về tư tưởng, mọi
cách hành vi của họ không có ǵ là sâu sắc, nên có người
đă chê sự quan sát của Hồ Biểu Chánh là cạn
hẹp.
Đây
tôi đề cử ra một truyện dài của Hồ Biểu
Chánh, một truyện có thể tiêu biểu cho các truyện
khác của ông, để xét về văn, về cách dựng
việc, về sự quan sát và về lối kết cấu.
Đó là truyện Cha con nghĩa
nặng.
Truyện
rất giản dị, tả một gia đ́nh dân quê nghèo
khổ mà người chồng tuy chất phác thực,
nhưng hiểu rất rơ nghĩa vụ của ḿnh. Có thể
tóm tắt như sau này:
“Trần Văn Sửu
là một anh dân quê thật thà, nhưng phải vợ là một
mụ có tính trai lơ, lại mồm loa mép giải. Hai vợ
chồng được ba đứa con: thằng Tư, con
Quyên và thằng Sung. Sửu lĩnh canh ruộng cho
hương hào Hội, và anh này dan díu với vợ Sửu,
làm cho dân làng dị nghị. Câu chuyện đến tai Sửu
và Sửu nghi thằng Sung không phải con ḿnh. Một
đêm, chàng nằm canh lúa ngoài đồng thấy đau bụng,
liền chạy về nhà định lấy ít nước
nóng để uống th́ không ngờ bắt gặp đôi
gian phu dâm phụ đang t́nh tự, Hương hào Hội
chạy thoát, Sửu đánh mắng và xô đẩy vợ,
chẳng may vợ ngă vỡ sọ chết. Sửu trốn
lên Mường, người ta tưởng chàng chết
đuối; c̣n Hương hào Hội nhờ sự lo chạy,
nên thoát tù tội. Trong cái thời gian Sửu trốn ấy,
hai đứa con Sửu là thằng Tư và con Quyên mới
đầu ở với ông ngoại chúng, sau đến làm
mướn cho một nhà cự phú là bà Hương quản
Tồn, góa chồng và chỉ có một trai một gái:
người con gái đă có chồng, c̣n người con trai
là ba Giai ham chơi bời, bỏ nhà đi từ lâu. Bà
Hương quản tồn rất thương yêu Tư và Quyên
v́ chúng đều là những thiếu niên chăm làm và có nết,
không như đứa con trai lêu lổng của bà. Khi hai
đứa lớn lên, bà cấp vốn cho Tư về nhà làm
ăn, ở với ông ngoại, c̣n Quyên bà giữ lại
cho học chữ, học nữ công và coi như con đẻ.
Đến lúc cậu ba Giai con bà Hương quản, ăn
năn, bà tha thứ cho về ở nhà. Giai ở gần
Quyên, sinh ḷng yêu mến nàng và bà Hương quản cũng
ưng thuận cho đôi lứa lấy nhau. Bà lại dự
định hỏi một người con gái nhà giàu cho Tư nữa.
Giữa lúc ấy th́ Sửu v́ nhớ con quá, nên từ giă xứ
Mường về thăm nhà trong một đêm tối. Bố
vợ Sửu thấy rể, vội vàng xua đuổi
chàng đi, sợ dân làng bắt chàng th́ làm lỡ cả cuộc
hôn nhân của hai trẻ, nhưng Tư cố giữ cha ở
lại và sau nhờ sự vận động của cậu
Giai, mà ṭa án thôi không truy tố Sửu nữa, nhờ thế,
có sự sum họp của cha con trong một cảnh nhà sung
sướng, khác hẳn ngày xưa.”
Thật
là một truyện có "hậu", một truyện hợp
với luân lư Đông Phương.
Nhưng
cái thú vị đệ nhất trong tập tiểu thuyết
này không phải ở đó, mà ở cuộc đời
người dân trong Nam nơi đồng ruộng, cái đời
cực nhọc mà tác giả đă tả rất khéo và rất
đúng. Nếu có được sự an ủi trong gia
đ́nh th́ sự cực nhọc ấy cũng không đến
nỗi gây nên đau đớn, nhưng vào cái "ca"
anh Sửu, vợ vừa dâm đăng vừa lăng loàn, th́
thân anh thật là thân trâu ngựa. Trần Văn Sửu ngồi
chết trân, tay níu bụi cỏ, mắt ngó mông trong đồng,
không nói được nữa".
Những
"xen" vợ chồng Sửu căi nhau là những
"xen" tuyệt khéo (trang 31 và 28) - P.N.T.V số 24 và 25 -
10 và 17-10-1929). Tất cả sự thô lỗ của anh nhà
quê phác thực và khờ khạo, tất cả những cái
già mồm và tinh rang của một cô gái đều diễn
ra trong mấy xen ấy. rồi tác giả đem một cảnh
ḥa hợp trong đêm tối để "đóng" xen ấy
lại:
Cách một hồi
lâu, Thị Lựu ở trong buồng cất tiếng kêu rằng:
- Cha thằng Sung,
a.
- Giống ǵ?
- Vô biểu một
chút.
Trần Văn Sửu
lồm cồm ngồi dậy đi gài cửa, bưng
đèn đem để trên bàn thờ mà tắt, rồi mon
men đi vô buồng, miệng cười ngỏn ngoẻn...
Sửu quên hết những lời
người ta nói về vợ ḿnh, cho măi đến khi
chàng gây nên án mạng. Cái án mạng giữa một đêm tối,
diễn ra trước mắt mấy đứa trẻ
thơ. Đây là thằng Tư và con Quyên trước cảnh mẹ
chúng vừa mới chết.
"Khi Trần
Văn Sửu dỡ cửa chạy mất rồi, thằng
Tư sẽ lén bước ra và lại đứng gần mẹ
nó mà coi. Con Quyên cũng đi theo đứng một bên
đó. Chúng thấy Thị Lựu mở cặp mắt trao
tráo mà nằm im ĺm th́ lấy làm lạ, không dè đă chết
rồi. Con Quyên nắm tay mẹ nó và lúc lắc kêu rằng:
"Má ơi, má! Sao má nằm hoài đó, má? Dậy vô buồng
mà ngủ với em chớ. Cha đi nữa rồi:. Thị
Lựu nằm trơ trơ. Thằng Tư bưng đèn lại
coi, thấy máu chảy dưới cổ dầm dề, nó
rờ mặt mẹ nó th́ lạnh ngắt, nó nhớ lại
hồi năy cha nó có nói mẹ nó đă chết rồi, nên nó sợ,
lật đật để đèn ra ghế, kéo tay em nó mà
dắt ra cửa và nói rằng:
"Má chết rồi, đi kêu ông ngoại
đi em!"
Hai đứa nhỏ ra sân. Trời sáng
trăng như ban ngày. Thằng Tư muốn chạy cho mau, ngặt
v́ con Quyên chạy không mau được nên nó phải chậm
mà dắt ..."
(P.N.T.V số
26, trang 30)
Trong
"Cha con nghĩa nặng",
cái lối tả linh động như thế rất nhiều.
Trừ đoạn Trần Văn Sửu ngồi than thân
trách phận trong khi đi trốn, c̣n tất cả các vai
đều diễn tính t́nh của ḿnh bằng những cử
chỉ và hành vi. Diễn được cái tính t́nh trẻ
con thơ ngây trước một cảnh thê thảm như
trên này vào một thời mà lối tả chân ở nước
ta chưa có, tôi cho là cần phải có cây bút tài t́nh và có con
mắt quan sát tinh vi.
Tả
cảnh, Hồ Biểu Chán cũng chỉ dùng vài nét bút.
Như tả cảnh làm lụng ngoài đồng ruộng:
"Một bữa nọ, nhằm tiết
tháng bảy, trời mưa lu ầm, lu ỳ. Ngoài đồng
nông phu làm lăng xăng, người th́ lo phát cỏ, kẻ
th́ lo trục đất. Mấy đám mạ gió thổi dợn
sóng vàng vàng; trong hào ấu, trái già cuốn đỏ đỏ"
(P.N.T.V số
32, trang 31)
C̣n
đây là một cảnh chiều ngoài đồng:
"Mặt trời
chen lặn, ếch uệch oạc kêu vang mé hào, trâu na nần
đi lần về xóm. Lúa cấy đă giáp đồng hết
rồi, đám nào chưa bén th́ coi vàng khè, đám nào đă nở,
th́ coi xanh mướt .."
(P.N.T.V số
32 trang 30)
Về
cảnh, bao giờ Hồ Biểu Chánh cũng tả
đơn sơ như thế. Văn ông không bao giờ
rườm rà đôi khi lại khí vắn tắt quá. Cái vắn
tắt ấy là một điều hay ở những chỗ
cần phải linh hoạt nhưng không phải chỗ nào
cũng đều hay cả:
Những
đoạn thằng Tư và con Quyên đến làm ở nhà bà
Hương quản Tồn, tác giả tả rất kỹ;
trái lại, từ đoạn Trần Văn Sửu trở
về làng, tác giả để cho việc trôi đi mau quá,
làm cho truyện hóa ra khô khan, mất cả hứng thú. Cái
đoạn ba Giai bắt gặp Quyên và Tư đang nói chuyện
về Sửu ở cḥi ruộng của Tư và bắt đầu
nhận bố vợ là một đoạn rất vụng.
Kế đến đoạn lo chạy cho Sửu, tác giả
cũng dàn cảnh một cách sơ sài, chẳng khác nào một
phim chớp bóng, nên truyện kém hẳn phần thiết thực.
Tuy
truyện "Cha con nghĩa nặng"
đă tiến bộ về mặt tả chân khi ta đem so
với những truyện ngắn, truyện dài của Nguyễn
Bá Học, Phạm Duy Tốn, Nguyễn Trọng Thuật
hay Phan Khôi, nhưng kết cấu vẫn c̣n chưa
được khéo.
Song
trong sự phê b́nh tiểu thuyết của Hồ Biểu
Chánh, ta không thể nào đem so sánh với tiểu thuyết
của những nhà văn có tiếng nhất, và mới xuất
bản gần đây. Ta nên nhớ rằng những tiểu
thuyết của Hồ Biểu Chánh, như truyện "Cha con nghĩa nặng" trên
này đă ra đời từ trước “Hồn bướm mơ tiên” của Khái Hưng ba
năm, mà từ “Hồn bướn
mơ tiên” đến “Hạnh”, nghệ thuật và
tư tưởng của Khái Hưng cũng đă thay đổi
khá nhiều. Và đă thay đổi như thế trong khỏang
bao nhiêu năm? Trong khoảng có tám năm! Vậy không thể
nào đem một truyện viết cách đây mười ba
năm, như truyện “Cha con nghĩa nặng”, so sánh với
những tiểu thuyết viết trong một bầu không
khí khác.
Tôi
đă nói ở trên: sự tiến hóa về đường
văn học ở nước ta hiện nay đang rất
mau, vài mươi năm ở nước ta có thể coi
như một thế hệ ở những nước mà sự
tiến hóa về đường ấy đă được
đầy đủ ...
Dù
sao, nếu đă đọc những tiểu thuyết của
các nhà văn đi tiên phong, từ Nguyễn Bá Học trở
lại, ai cũng phải nhận rằng từ Hoàng Ngọc
Phách và Hồ Biểu Chánh, tiểu thuyết nước ta
mới bắt đầu đến bước vững
vàng, để dần dần đi tới ngày nay là lúc
đă có thể chia ra nhiều ngả, phân ra nhiều loại.
-----------------
Trích từ
“Nhà văn hiện đại”, tập I, của Vũ Ngọc
Phan- NXB Khoa học xă hội- 1989.
©2006 hobieuchanh.com